Mở đầu (Prologue)
- dzung le
- Jun 17
- 10 min read
Updated: Aug 9
Ngay lúc này, ở một nơi nào đó trong vũ trụ.
Ánh sáng từ ngôi sao lùn đỏ[1] gần đó rọi lên toàn bộ khoang điều khiển.
Con tàu Ambrose đã trôi nổi nhiều ngày trong vùng không gian đen tối, sâu thẳm và trống rỗng nhưng đầy ắp các vì sao rực rỡ từ phía xa. Đan xen với hàng triệu vì sao là những đám mây khí và bụi phản chiếu ánh sáng của các ngôi sao lân cận. Tất cả tạo ra màn ánh sáng thanh bình, huyền ảo dường như hòa nhịp với nhịp điệu của vũ trụ. Ở những vùng này, sự hình thành khí, bụi và các vật liệu khác kết tụ lại với nhau tạo thành những vùng đậm đặc hơn, rồi chúng hút thêm vật chất và cuối cùng trở nên đủ đậm đặc để hình thành lên các ngôi sao.
“Chúng ta đã thoát ra khỏi vùng không gian đen tối đó sao, Dal?” Giọng nói nữ khẽ cất lên, phía bên trong khoang tàu.
“Chúng ta đã ở đây vài ngày qua. Ambrose ở trên quỹ đạo của một hành tinh đá có thể hỗ trợ sự sống, trong hệ sao lùn đỏ thuộc lớp M theo biểu đồ H-R[2]. Nhiệt độ bề mặt của ngôi sao xấp xỉ 2500 độ K[3]. Theo tính toán thì kích thước sao chủ cỡ 0.54 lần bán kính Mặt Trời.”
“Chính xác chúng ta đang ở đâu? Ý tôi là dải Ngân Hà đây ư? Ở cánh tay[4] nào của dải Ngân Hà?”
“Bộ định vị tự động không còn hoạt động. Chúng ta cần thực hiện thủ công các quan trắc thiên văn, Lilya.”
Thả mình trong môi trường vi trọng lực, Lilya quan sát ngôi sao chủ phát ra thứ ánh sáng màu đỏ cam kỳ lạ. Cô đặt tay lên mặt kính cửa sổ, chăm chú nhìn mọi thứ. Đối với cô, thứ ánh sáng này dịu nhẹ hơn so với ánh Mặt Trời mà cô từng dành cả đời chiêm ngưỡng. Đó là bình minh, là ánh hoàng hôn – thứ ánh sáng chẳng là vĩnh cửu của Hệ Mặt Trời. “Sao điều này có thể xảy ra, Dal? Liệu chúng ta có thành công?”
“Nhưng thành công theo khía cạnh nào?”
“Vậy tiến sĩ Arrington có đúng không? Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, phi hành đoàn chúng ta đã⸻ừm, sống sót, ít nhất là vậy. Một chiều không gian khác⸻một vũ trụ khác. Có thể lắm chứ!”
“Chúng ta có một niềm tin sắt đá vào nhận định mà ngài tiến sĩ đưa ra. Phần việc còn lại⸻”
“Ít nhất chúng ta đã cố gắng giao tiếp với bọn họ. Tôi tự tin về những kết quả đó. Những dị thường không thời gian cùng tín hiệu sóng vô tuyến ở Brahma sẽ giúp ích cho họ. Đó là Arrington, là Miller.” Lilya đáp, giọng cô hơi nghẹn lại.
“Tôi rất tiếc, Lilya.”
Không chút âm thanh nào đủ lớn có thể gây mất tập trung với Lilya ngay lúc này, cô vẫn sững người khi cảm nhận quang cảnh choáng ngợp của hành tinh đá khổng lồ nhuốm ánh đỏ cam từ ngôi sao chủ. Quay ra phía sau, cô thấy người máy Dal đang thực hiện các phép quan trắc trên con tàu. “Tôi sẽ đi kiểm tra khoang điều áp, những tấm pin năng lượng và tấm chắn khẩu độ của kính thiên văn, Dal.”
“Hãy đi kiểm tra cảm biến điều hướng và bộ phận quan sát nâng cao, Lilya. Tôi không tin vào kết quả hiện có của phép quan trắc.”
Tuy chỉ có kích thước nhỏ nhưng Ambrose không thể thiếu các bộ phận quan sát thiên văn quan trọng. Việc bảo trì những thiết bị này là công việc tương đối phức tạp, đòi hỏi sự chính xác đến kinh ngạc. Lilya không quen với từng công đoạn mặc dù cô đã được huấn luyện để làm điều tương tự. Chuyên môn của cô xoay quanh các dạng sống ngoài vũ trụ và thực nghiệm về môi trường liên hành tinh.
Và không một ai bây giờ có thể giúp đỡ cô công việc nặng nhọc này.
Một vài giờ trôi qua, Lilya không đủ sức để tiếp tục ở ngoài môi trường chân không nữa, cô tạm dừng để cập nhật tình hình cho Dal. “Tôi đã quay trở lại. Chúng ta đang có trục trặc ở bộ phận gương chính thu giữ bức xạ điện từ và máy quang phổ[5].”
“Lilya, chúng ta vẫn đang trong Nhóm Địa phương[6].”
“Dĩ nhiên. Tôi hiểu.”
“Một thiên hà tôi đã quan sát từ trước đó là thiên hà xoắn ốc, hình ảnh rất rõ. Dựa theo kết quả đối chiếu từ dữ liệu sẵn có, chúng ta có thiên hà M33.”
“Thiên hà Tam giác[7]?”
“Chính xác, ý của cậu là chúng ta đang rất gần nó?”
“Thực ra⸻đúng thế! Ước chừng 500 nghìn năm ánh sáng.”
“Thật đáng kinh ngạc!”
“Còn đây, chúng ta có bốn cánh tay, cấu trúc của thiên hà này có thanh ngang ở chính giữa, nhiều đám bụi khí lớn ở rìa. Nhìn này, Lilya! Phần mờ ở đây là Đám mây lớn Magellan – thiên hà vệ tinh kế cận, dựa theo những dữ liệu có sẵn.”
“Tôi đã thấy nó. Các đám bụi khí sinh ra từ các cánh tay lớn khác.” Lilya sững sờ. Cô vừa nói vừa lắc đầu phủ nhận Dal, “Không thể nào! Không thể nào!”
“Kết quả đối chiếu từ cơ sở dữ liệu đều không khớp, như vậy đây có thể là dải Ngân Hà – quê hương chúng ta.”
Lilya như thể hóa đá, cô không cử động. Cô liền lấy tay véo mạnh lên má, khoảnh khắc mà cô chợt nhận ra là hoàn toàn có thật. Cô lầm bầm, “Đây không phải là giấc mơ, chết tiệt! Không phải trong mơ, Lilya à!”
“Một số quan sát và ảnh chụp còn lại cho thấy chúng ta đang ở gần rìa của một thiên hà rất rất lớn.” Dal nói tiếp, “Số lượng sao lên đến vài nghìn tỉ.”
“Có lẽ là⸻”
“Là thiên hà Tiên Nữ[8]. Chúng ta đã du hành liên thiên hà. Khoảng cách hơn 2.5 triệu năm ánh sáng. Điều chưa từng xảy ra đối với loài người.”
* * *
Đã từ rất lâu, ở một nơi nào đó trong Hệ Mặt Trời.
Cuối cùng thì thiên thạch 2313OC-Tyndall đã va chạm với Hoả Tinh. Địa điểm va chạm gần trung tâm vùng đồng bằng Amazonis Planitia. Toạ độ chính xác là 25.1 độ vĩ Bắc và 195.5 độ kinh Đông. Một cú sốc lớn đối với cộng đồng cư dân trên Hoả Tinh cũng như toàn bộ cư dân sinh sống tại khu định cư ngoài không gian Tyndall cách đó hơn 2 triệu ki-lô-mét.
Con số thương vong không được công bố chính thức bởi Liên Minh và Văn phòng của Liên Hợp Quốc về những vấn đề ngoài không gian. Một phần là do những hạn chế về thời gian ứng phó khẩn cấp với thảm hoạ ngẫu nhiên. Hai là sự dốc sức của họ đang dành cho loạt thảm hoạ khác như Tận thế đang xảy ra trên Trái Đất. Tuy nhiên, nhóm các nhà khoa học địa chất thiên thể từ Tyndall đã được gửi xuống bề mặt Hoả Tinh, dẫn đầu bởi nhà địa chất học hành tinh Matthew Howart. Tám tháng sau sự kiện va chạm, những mẫu đất đá thu được đã được nghiên cứu đầy đủ mà không có các công trình khoa học nổi bật nào được công bố.
“Xin chào, ngài Howart!” Tiếng nói êm dịu cất lên. Giọng nói như cố gắng đánh thức Matt, “ngài Howart?”
“Ngài Howart? Xin lỗi ngài,” tiếng nói to hơn trước. Matt mở mắt, anh vẫn mơ màng vì khoảng thời gian dài cả ngày nay anh đã dành cho phòng thí nghiệm.
Matt đã ở phòng chờ này được sáu tiếng đồng hồ. “Tôi xin lỗi, tôi đã kiệt sức.” Khuôn mặt anh nhăn nhó, không giấu nổi vẻ mệt mỏi và căng thẳng.
“Một tin vui lớn dành cho anh! Anh đã trở thành người cha của cặp bé gái xinh đẹp và khoẻ mạnh. Chị Howart cùng hai bé gái sức khoẻ đã ổn định. Họ đang chờ anh phía bên trong. Rất xin lỗi anh vì khoảng thời gian xử lý kĩ thuật sau sinh kéo dài nhiều giờ.”
“Cảm ơn cô,” tông giọng Matt rõ ràng hơn với nụ cười nở trên môi. Sau tất cả, điều an yên nhất trong tâm hồn anh chính là sức khoẻ của vợ con anh.
Matt bước vào trong, anh nhẹ nhàng tiến lại gần giường của vợ.
“Anh yêu,” Mara nhẹ nhàng nói.
Matt không đáp lại, thay vào đó là cái nhìn trìu mến cùng nụ cười rạng rỡ. Đầu anh lắc lư sang hai bên, điều không khỏi khiến Mara phì cười. Cặp bé gái song sinh nằm gọn bên trong chiếc nôi màu hồng dễ thương ngay bên cạnh. Cả hai vừa thức giấc, mở to đôi mắt ngắm nhìn Matt. “Ôi trời, những cái chóp chép miệng thật đáng yêu làm sao!” Matt quay sang nói với Mara. “Anh tự hào về em!”
“Chúng có cái miệng và chiếc mũi giống anh lắm.”
“Đôi mắt là của em. Khuôn mặt chúng tựa như những thiên thần, Mara!”
“Anh yêu, những cái tên thì sao nhỉ?”
“Ruthia. Không phải chúng ta đã bàn rồi sao?”
“Hai cơ mà, anh yêu?”
Matt nắm lấy tay vợ, trìu mến nói: “Em chọn đi!”
“Atthi.”
“Hay đó, anh thích cái tên này, bé yêu!” Nói xong Matt liền lấy tay vuốt ve má vợ.
“Ruthia và Atthi,” Mara đáp và mỉm cười nhìn Matt.
"Chúng sẽ trở thành những công dân tốt của Tyndall.”
“Chúng quá dễ thương, Matt!” Mara bỗng rưng rưng nước mắt.
“Chuyện gì vậy, em yêu?” Ngón tay Matt gạt nhẹ giọt nước mắt đang lăn từ từ trên má vợ anh.
Mara dựng người dậy, cô lập tức ôm choàng lấy Matt. “Cái dịch bệnh chết tiệt đó. Hàng tỉ người trên Trái Đất, anh yêu!” Cô khóc nức nở. “Em không muốn chúng cướp đi Ruthia và Atthi, hai thiên thần nhỏ của bọn mình. Matt! Ôi, Không bao giờ!”
“Anh sẽ bảo vệ em và các con bằng mọi giá.” Giọng Matt như cứng lại. Tay anh đặt nhẹ lên mái tóc nâu buông dài của vợ. Anh chẳng thể nào kìm nổi theo sự xúc động của Mara.
“Matt, em yêu anh! Em yêu Ruthia và Atthi!”
“Anh cũng vậy, Mara. Anh yêu em!” Matt xoa nhẹ lưng vợ.
Tiếng khóc dần nhẹ đi. “Nhất định như thế, anh yêu! Nhất định như thế, chúng sẽ trở thành những công dân tuyệt vời nhất của Tyndall, và Liên Minh.” Mara sụt sùi nói.
“Chắc chắn rồi, cưng à!” Matt dịu dàng đáp. Nhất định anh đã cảm thấy vai trái ướt đẫm nước mắt của Mara. Anh từ từ tách Mara ra, xong hôn nhẹ lên trán rồi đôi môi còn hồng hào và dính ướt nước mắt của cô. “Kìa! Mara, em cần nghỉ ngơi. Mọi thứ đã quá sức chịu đựng của em rồi!” Anh nở nụ cười thật tươi nhìn Mara âu yếm.
“Dạ!”
Và đó là câu nói cuối cùng của Mara dành cho anh, Matthew Howart.
Mara Wilson Howart, cô đã nở nụ cười mãn nguyện. Cặp bé gái sau đó vẫn khoẻ mạnh. Các nỗ lực can thiệp từ y học Tyndall cũng đã dừng lại. Họ chưa từng và cũng không bao giờ biết được nguyên nhân tại sao, chỉ đến khi⸻Ruthia cảm nhận được điều đó, cùng Atthi.
Một giờ đồng hồ của Matthew bên cạnh Mara như kéo dài vô tận. Khoảng thời gian đó ám ảnh cuộc đời anh mãi mãi về sau.
[1] Sao lùn đỏ (red dwarf): là những ngôi sao có khối lượng rất thấp chưa đến 40% khối lượng Mặt Trời, là loại sao nhỏ nhất trong dãy chính (liên quan đến phân loại sao theo nhiệt độ bề mặt và độ trưng trong biểu đồ Hertzsprung-Russell). Vì thế chúng có nhiệt độ lõi thấp và năng lượng được tạo ra ở tỷ lệ thấp. Sao lùn đỏ cho đến nay là loại sao phổ biến nhất trong Dải Ngân hà, ít nhất là ở vùng lân cận Mặt trời.
[2] Biểu đồ Hertzsprung–Russell: biểu đồ cho phép phân loại các ngôi sao và theo dõi sự tiến hóa của sao thông qua hai thông số trên trục hoành và trục tung là nhiệt độ bề mặt (màu ngôi sao) và độ trưng (độ sáng tuyệt đối). Biểu đồ được tạo ra bởi Ejnar Hertzsprung và Henry Norris Russell năm 1910.
[3] Độ K: Đơn vị đo lường cơ bản của nhiệt độ. 0°C ứng với 273,15 K. Công thức quy đổi: độ K – 273.15 = độ C. 2500 K bằng 2226.85 độ C.
[4] Cánh tay (Spiral Arm) hay nhánh của thiên hà: đặc điểm nổi bật nhất của bất kỳ thiên hà xoắn ốc nào là hai hoặc nhiều cánh tay (nhánh xoắn ốc) quét ra từ phần phình trung tâm hoặc các đầu của thanh thiên hà.
[5] Máy quang phổ (Spectroscope): máy quang phổ quang học (máy quang phổ) là thiết bị dùng để đo các đặc tính của ánh sáng trên một phần cụ thể của phổ điện từ, thường được sử dụng trong phân tích quang phổ để xác định vật liệu hoặc thành phần vật liệu.
[6] Nhóm Địa phương (The Local Group): là một nhóm thiên hà bao gồm Dải Ngân hà, nơi có Trái đất. Nó có tổng đường kính khoảng 3 megaparsec (hay 10 triệu năm ánh sáng; 9x1019 km), và tổng khối lượng cỡ 2x1012 khối lượng Mặt Trời (4x1042 kg). Nhóm Địa phương bao gồm hai nhóm thiên hà nhỏ hơn có hình dáng như “quả tạ”; Dải Ngân hà và các vệ tinh của nó tạo thành một đầu của quả tạ, còn Thiên hà Tiên Nữ (Andromeda) và các vệ tinh của nó tạo thành đầu còn lại. Hai tập hợp này cách nhau khoảng 800 kiloparsec (hay xấp xỉ 3 triệu năm ánh sáng; 2×1019 km). Số lượng chính xác các thiên hà trong Nhóm Địa phương vẫn chưa được biết vì một số bị Dải Ngân hà che khuất.
[7] Thiên hà Tam giác (Triangulum Galaxy): là một thiên hà xoắn ốc cách Trái đất 2,73 triệu năm ánh sáng (ly) trong chòm sao Tam Giác. Nó được phân loại là Messier 33 hoặc NGC 598.
[8] Thiên hà Tiên Nữ (Andromeda Galaxy): là thiên hà dạng xoắn ốc có thanh ngang ở tâm. Đây là thiên hà lớn gần với Dải Ngân hà của chúng ta nhất. Ban đầu thiên hà này được gọi tên là Tinh vân Andromeda (phân loại là M31 hay NGC 224). Tên của thiên hà bắt nguồn từ khu vực trên bầu trời Trái Đất nơi có chòm sao Andromeda, tên của công chúa và là vợ của Perseus trong thần thoại Hy Lạp cổ đại.
Comentários